Bài viết Đăng trên báo Người Đô thị của tác giả Linh Đan.
Hàng nghìn cá thể gấu hoang dã bị bắt nuôi lấy mật
Trong vòng 20 năm qua tại Việt Nam, hàng
nghìn cá thể gấu hoang dã đã bị bắt, bị nuôi nhốt trong những chuồng
trại chật hẹp từ Bắc vào Nam, bị “thu hoạch” mật, phục vụ cho những bài
thuốc cổ truyền. Việc nuôi giữ và sử dụng mật gấu đã trở thành việc
thường xuyên đến mức, không ít gia đình tại Việt Nam trong tủ lạnh
thường có một ống mật gấu cất giữ, để phòng khi cần đến. Những nghiên
cứu trước đây đã cho thấy rằng số lượng hoang dã ngoài tự nhiên đã bị
suy giảm nghiêm trọng ở Việt Nam, từ năm 1995 – 2005, khi ngành công
nghiệp nuôi gấu lấy mật được phép đi vào hoạt động.
Năm 2006, chính phủ Việt Nam thừa nhận
mối nguy tiềm tàng đẩy loài gấu ở Việt Nam đến vực tuyệt chủng, nên đã
phát hành luật cấm thu hoạch và buôn bán mật gấu. Kể từ đó, số lượng gấu
nuôi trong các trang trại ở Việt Nam đã giảm từ hơn 4.000 cá thể xuống
còn khoảng 1.000 gấu hiện nay.
Sự sụt giảm trong số lượng gấu bị nuôi
giữ ở Việt Nam có thể là do luật ban hành cấm đã được thực thi hiệu quả,
nhận thức của người dân được tăng cao thông qua các chiến dịch và dự án
giáo dục bảo tồn, sự thay đổi nhu cầu của người sử dụng và sự suy giảm
của số lượng gấu hoang dã, dẫn đến sự suy giảm gấu bị bắt bẫy để nuôi
nhốt trong các trang trại.
Từ lâu, các nhà bảo tồn đã tranh cãi
liệu việc nuôi giữ gấu trong các trai trại lấy mật có phải biện pháp bền
vững. Đây cũng chính là vấn đề nóng từ nhiều năm nay, không chỉ đối với
việc bảo tồn gấu, mà còn đối với nhiều loài động vật hoang dã khác, như
hổ, tê tê và cả tê giác... Thêm vào đó, việc nuôi giữ gấu để lấy mật ở
Việt Nam đã bị cấm, nhưng ở những nước láng giềng khác như Lào và
Campuchia lại mới chỉ bắt đầu. Nếu không có những chứng cứ và lập luận
chắc chắn từ các nhà khoa học bảo tồn, thì các chính phủ và người tiêu
dùng có thể dễ dàng lờ đi những mối nguy dẫn đến nạn tuyệt chủng của các
loài động vật hoang dã.
Tình trạng nuôi gấu lấy mật ở Việt Nam
chính là một trong những ví dụ điển hình cho thấy ngành công nghiệp nuôi
nhốt động vật hoang dã không thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng sản phẩm
từ động vật hoang dã từ người dân, và làm suy giảm nghiêm trọng số lượng
loài ngoài thiên nhiên hoang dã. Và sự suy giảm của ngành công nghiệp
nuôi nhốt gấu lấy mật ở Việt Nam cho thấy một cơ hội để chúng ta có thể
rút ra những kinh nghiệm và bài học đắt giá: như việc nó phát triển như
thế nào, và lý do gì dẫn đến sự suy giảm này, từ chính những chủ trang
trại nuôi giữ gấu.
Phản bảo tồn
Một nghiên cứu khoc học dựa vào quá
trình phỏng vấn và thu nhập thông tin từ những chủ trang trại nuôi gấu
lấy mật ở Việt Nam, với tên gọi “Challenges and Conservation implications of bear bile farming in Vietnam”
(Tạm dịch: Thách thức và tác động của việc nuôi giữ gấu lấy mật tại
Việt Nam) vừa được công bố ngày hôm 3.7.2018 (*). Kết quả nghiên cứu cho
thấy ngành công nghiệp nuôi giữ gấu lấy mật ở Việt Nam phụ thuộc vào
việc săn bắt gấu hoang dã ngoài tự nhiên, với đại đa số chủ trang trại
thừa nhận họ thất bại trong việc gây giống gấu nuôi.
Chủ trang trại nuôi gấu, khi được các
thành viên của dự án nghiên cứu phỏng vấn, thừa nhận nhu cầu sử dụng mật
gấu vào thời “hoàng kim” vượt quá mức cung của các trang trại, dù tổng
số lượng gấu nuôi vào thời điểm đó trong cả nước lên đến hơn 4.000 gấu.
Họ cũng cho hay khách hàng sử dụng mật gấu nuôi không hài lòng với chất
lượng của mật, và ở nhiều nơi thổi phồng tác dụng của mật gấu để bán cho
khách hàng dẫn đến việc khách không còn tin tưởng vào việc sử dụng mật
gấu nuôi.
Họ cho rằng chất lượng mật gấu không tốt
là do gấu nuôi không được tự do vận động, tìm kiếm thức ăn, chất lượng
nuôi nhốt và khẩu phần ăn tồi tàn và việc thu hoạch mật gấu quá mức
thường xuyên. Vì vậy mà nhiều khách hàng sử dụng mật gấu sẵn sàng trả
với giá tiền cao hơn rất nhiều để có thể mua được mật hoặc túi mật từ
gấu hoang dã. Nhiều chủ trang trại cho biết giá mật gấu hiện nay đã rớt
xuống rất thấp, nhưng giá mật gấu hoang dã vẫn ở mức rất cao.
Ông Brian Crudge, Quản lý chương trình
nghiên cứu bảo tồn gấu của tổ chức Free The Bears – đồng nghiên cứu của
báo cáo này, cho hay: “Thông tin từ những chủ trang trại gấu đã bổ sung
thêm vào những chứng cứ thu thập được từ trước đây về việc nuôi nhốt
gấu lấy mật đem lại những tác động rất xấu đối với số lượng gấu hoang dã
ngoài tự nhiên. Từ giá đầu tư cao để mua gấu, xây dựng chuồng trại, giá
tiền cho gấu ăn, thậm chí là mua đất để mở rộng trang trại nuôi gấu, sự
phụ thuộc vào số lượng gấu bị bắt bẫy ngoài tự nhiên để phục vụ cho
ngành chăn nuôi gấu lấy mật, và việc chuộng sử dụng mật gấu hoang dã của
người tiêu dùng... đều cho thấy rằng ngành công nghiệp chăn nuôi gấu không hề đem lại bất cứ lợi ích nào cho công tác bảo tồn gấu”.
Năm 2017, chính phủ Việt Nam ký hiệp ước
chấm dứt hoàn toàn việc chăn nuôi gấu lấy mật. Bà Trang Nguyễn, giám
đốc tổ chức WildAct, đồng tác giả báo cáo, cũng nhận định: “Nuôi giữ gấu
lấy mật là hành vi rất tàn bạo và không cần thiết. Chúng tôi lo ngại
rằng với thói quen sử dụng mật gấu, những người tiêu dùng mật gấu sẵn
sàng trả giá cao để mua mật gấu hoang dã sẽ trực tiếp đẩy loài gấu của
Việt Nam đến vực tuyệt chủng. Công tác bảo tồn không phải chỉ để bảo tồn
tài nguyên thiên nhiên, mà còn là để bảo vệ chính mạng sống của con
người nữa. Việc sử dụng mật gấu hay những sản phẩm từ động vật hoang dã
khác, có thể gây ra những loại bệnh truyền nhiễm từ động vật sang con
người. Ví dụ như bệnh lao là một loại bệnh hoàn toàn có thể lây lan từ
gấu sang người và ngược lại. Không sử dụng các sản phẩm từ động vật
hoang dã là cách tốt nhất để bảo vệ sức khỏe của bản thân và cộng đồng”.
Các nhà nghiên cứu của báo cáo này hi
vọng rằng với kết quả nghiên cứu này, các cấp chính quyền và những đơn
vị có liên quan có thể cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước khi cho phép các hoạt
động nuôi nhốt, làm kinh tế từ động vật hoang dã, và người dân sẽ có
trang bị kiến thức tốt hơn để lựa chọn phương pháp chăm sóc sức khỏe an
toàn hơn cho bản thân và thân thiện hơn với môi trường.
_________
Tổ chức Free the Bears là một tổ chức
phi chính phủ với mục đích hỗ trợ các nỗ lực nhằm loại bỏ việc nuôi gấu
lấy mật, giải cứu những chú gấu bị nuôi giữ trái phép và đưa chúng về
những khu cứu hộ bảo tồn được xây dựng phù hợp với tập tính và yêu cầu
môi trường sống của gấu.
Tổ chức Free the Bears có trung tâm cứu
hộ gấu ở Lào, Campuchia và Việt Nam. Tại Việt Nam, trung tâm cứu hộ gấu
vừa được xây dựng với quy mô lớn, đặt tại vườn quốc gia Cát Tiên.
_________
Tổ chức WildAct là tổ chức bảo tồn động
vật hoang dã ở Việt Nam, với nhiệm vụ chính là nâng cao ý thức cộng đồng
về các vấn đề liên quan đến bảo tồn thiên nhiên hoang dã và đảm bảo đời
sống của người dân địa phương.
*) Nghiên cứu này là kết quả của sự hợp tác giữa tổ chức bảo tồn gấu
Free the Bears, tổ chức bảo tồn động vật hoang dã Việt Nam WildAct và
trường đại học Vinh. Nghiên cứu nhận được sự trợ cấp kinh phí từ Perth
Zoo Wildlife Conservation Action.
Theo Linh Đan, Báo Người Đô thị.